Để ước tính được nguy cơ tim mạch tổng thể, người ta thường sử dụng những thang điểm sau đây để dự đoán khả năng một bệnh nhân mắc bệnh tim mạch trong vòng 10 năm tới.
Bạn đang đọc: Làm sao ước tính được nguy cơ mắc bệnh tim mạch?
Các hệ thống đánh giá nguy cơ tim mạch hiện nay bao gồm 2 loại biểu đồ dự báo nguy cơ tim mạch hay bảng đánh giá nguy cơ tim mạch là Framingham và EURO- Score.
2 thang điểm này đều được xây dựng dựa trên các yếu tố như tuổi, giới tính, chỉ số huyết áp, chỉ số cholesterol máu, tình trạng đái tháo đường, hút thuốc lá… Thông qua những thông số này, bệnh nhân sẽ được tính tổng điểm và từ đó biết được nguy cơ tim mạch trong vòng 10 năm tới.
Mục Lục Bài Viết
3.1. Tuổi tác
Đây là tác nhân Dự kiến bệnh quan trọng nhất vì hầu hết những người cao tuổi có nguy cơ mắc bệnh tim mạch rất cao. Đây là nguy cơ tim mạch không hề đổi khác được .
3.2. Giới tính
Nam giới là đối tượng người tiêu dùng có nguy cơ tim mạch cao hơn phụ nữ. Tuy nhiên, những đối tượng người tiêu dùng là phụ nữ cao tuổi sau mãn kinh cũng có năng lực mắc bệnh tim mạch nên rất cần chú ý quan tâm đến trường hợp này .
3.3. Di truyền
Những người có thành viên trong gia đình mắc bệnh tim mạch, nhất là thành viên nam trước 55 tuổi và thành viên nữ trước 65 tuổi thì sẽ có nguy cơ tim mạch cao hơn.
Ngoài yếu tố tiền sử mái ấm gia đình có người mắc bệnh từ sớm, những người thuộc chủng tộc Mỹ gốc Phi cũng có nguy cơ tim mạch nhiều hơn vì họ thường bị đái tháo đường và tăng huyết áp hơn người thuộc chủng tộc Mỹ da trắng .
3.4. Tăng huyết áp
Đây là một trong những yếu tố nguy cơ tim mạch thường gặp nhất. Dấu hiệu tăng huyết áp này rất nguy hiểm, ít biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng nhưng lại là nguy cơ gây bệnh tim mạch và để lại những biến chứng tim mạch nguy hiểm.
Ngoài ra, thực trạng tăng huyết áp còn đi cùng với những nguy cơ tim mạch khác như béo phì, tăng cholesterol, triglycerid máu, đái tháo đường … Vì vậy cần điều trị hiệu suất cao thực trạng tăng huyết áp trên bệnh nhân .
3.5. Tăng cholesterol máu và rối loạn lipid máu liên quan
Đây là nguy cơ tim mạch có thể thay đổi được. Cholesterol máu gồm 2 thành phần quan trọng nhất là cholesterol trọng lượng phân tử cao (HDL-C) và cholesterol trọng lượng phân tử thấp (LDL-C). Bệnh tim mạch xảy ra khi nồng độ LDL-C, và khi nồng độ HDL-C tăng thì sẽ bảo vệ cơ thể chúng ta nên nếu nồng độ HDL-C giảm thấp thì cũng là yếu tố nguy cơ tim mạch.
Ngoài ra, tăng triglyceride – là một thành phần mỡ máu cũng làm tăng nguy cơ tim mạch. Những rối loạn lipid máu kể trên cũng đi kèm với bệnh lý như đái tháo đường, tăng huyết áp.
Bệnh nhân nên được làm những xét nghiệm về nồng độ lipid máu, nhất là sau 40 tuổi. Kèm theo đó là duy trì một chính sách nhà hàng khoa học và rèn luyện điều độ để cân đối lipid máu. Bệnh nhân rối loạn lipid máu còn được điều trị bằng thuốc để kiểm soát và điều chỉnh nồng độ lipid máu .
3.6. Hút thuốc lá
Hút thuốc lá yếu tố nguy cơ của bệnh lý mạch vành, bệnh máu ngoại vi, ung thư phổi và đột quỵ. Những người hít phải khói thuốc lá mặc dù không hút cũng có khả năng mắc bệnh.
Source: https://tronbokienthuc.com
Category: Đánh Giá