Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I – Wikipedia tiếng Việt

Bởi tronbokienthuc

Cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I, còn là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc bầu cử đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu và lựa chọn ra 333 đại biểu cho Quốc hội khóa I.

Việc tổ chức triển khai bầu cử được nhà nước lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng chuẩn bị nhanh lẹ từ 8/9/1945 đến 6/1 năm 1946 trên cơ sở nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào. Quá trình hoạt động và triển khai bầu cử gặp nhiều trở ngại do sự phản đối của những Đảng phái, lực lượng trái chiều với Việt Minh và tình hình chiến sự tại nhiều nơi trong cả nước, trong đó, hai lực lượng có sự tương hỗ của ngoại bang là Nước Ta Cách mệnh Đồng minh hội và Nước Ta Quốc dân Đảng tẩy chay không tham gia tranh cử. Ngoài ra, thực trạng mù chữ phổ cập trong dân chúng buộc Ủy ban bầu cử có nhiều giải pháp tương hỗ tại chỗ .
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sinh ra, quản trị Hồ Chí Minh đã chỉ huy phải tập trung chuyên sâu tổ chức triển khai càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc dân Đại hội ( Quốc hội ). quản trị Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 14 ngày 8 tháng 9 năm 1945 và Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 10 năm 1945 về tổ chức triển khai Tổng tuyển cử. [ 1 ]

liên kết hỏng

] đại biểu Quốc hội khóa I chụp ảnh cùng Hồ Chủ tịchCácđại biểu Quốc hội khóa I chụp ảnh cùng Hồ quản trịĐể bảo vệ cho Chính quyền mới xây dựng, quản trị nhà nước Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký 1 số ít sắc lệnh giải tán những tổ chức triển khai và nhân vật bị kết tội làm ” tay sai ” cho Pháp-Nhật trước đó, cùng với những tổ chức triển khai có tín hiệu gây không ổn định chính quyền sở tại : Đại Việt Quốc xã [ 2 ] ( phát xít [ 3 ] ), Đại Việt Quốc dân Đảng ( do tổ chức triển khai tiến công chính quyền sở tại ), Nước Ta Thanh niên ái quốc hội [ 4 ] ( do có cộng tác với Nhật [ 3 ] ), đồng thời đưa đi an trí 1 số ít thành phần bị kết tội nguy khốn cho nền Dân chủ Cộng hoà Nước Ta [ 5 ] .

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo nước ngoài (16-7-1947)[6] như sau: Quốc hội Việt Nam là do toàn dân đầu phiếu cử ra. Tất cả đàn ông và đàn bà 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử. Cuộc tuyển cử lần đầu ngày 6-1-1946, trung bình là 82 phần trǎm cử tri đã tham gia. Lúc đó có đại biểu của báo ngoại quốc đến xem. Trưởng ban Thường trực Quốc hội là một vị nho học lão thành, trước đã làm quan đến bực đại thần; Phó Trưởng ban là một vị linh mục và một vị Đảng viên của Đảng Dân chủ. Chính phủ Việt Nam gồm có đại biểu các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ Việt Minh, Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, Quốc dân Đảng và nhiều vị không có Đảng phái nào.

Ngày 06-01-1946, Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trên cả nước. [ 7 ]

Tuy vậy số người ứng cử vẫn rất đông, vận động bầu cử khá phổ biến như theo báo Đại đoàn kết[8]: Người ứng cử đông. Tỉnh miền núi xa xôi, ít nhất cũng có ngoài 20 ứng cử viên, tỉnh Hưng Yên có 40 ứng cử viên, Hà Nội có 74 ứng cử viên. Đoàn Hà Nội có 6 đại biểu Quốc hội trong đó có 2 Đảng viên là Bác Hồ và bác sĩ Trần Duy Hưng (tham gia Việt Minh từ năm 1943 và được kết nạp Đảng tháng 10-1945). Địa phương nào cũng có nhiều người tự ứng cử. Những cuộc tiếp xúc rộng rãi diễn ra hết sức sôi nổi ở mọi nơi trong khung cảnh thực sự tự do và dân chủ giữa các cử tri và người ra ứng cử. Tranh cử là phổ biến vì chỉ tranh cử mới có thể chọn lựa người tài đức, có khi là nhóm hai, ba ứng cử viên tổ chức riêng một cuộc tiếp xúc để trình bày chương trình hành động của mình, thậm chí có nơi chỉ một ứng cử viên cũng tự lực bố trí nơi họp đủ chỗ để tiếp xúc cử tri.

Hai Đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Tuy nhiên trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các Đảng phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh và hai Đảng này. Có thể là các Đảng này không đưa người ra ứng cử vì dựa theo thỏa thuận còn theo Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp thì cho rằng: …chúng [chỉ Việt Quốc, Việt Cách] càng biết rõ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không mang lại gì cho chúng.[9]

Trên thực tế, các Đảng này còn phát động tẩy chay bầu cử. Ngay cả khi đã tuyên bố nhất trí về kế hoạch tổng tuyển cử, các Đảng phái Việt Quốc, Việt Cách vẫn dùng báo chí đả kích Việt Minh: trúng cử chỉ là Việt Minh Cộng sản… chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được,[8] tổ chức các cuộc tuần hành, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử. Theo báo Sự thật, Việt Quốc, Việt Cách thậm chí bắt cóc, giết những ứng cử viên, Đảng viên Cộng sản, cán bộ Việt Minh (tiêu biểu là Trần Đình Long[10]) hay thủ tiêu những người cùng tổ chức có cảm tình với Chính phủ.[11]

Do 95 % dân số Nước Ta lúc đó mù chữ [ 12 ] nên để giúp những cử tri không biết chữ triển khai được quyền bầu cử, Sắc lệnh số 51 pháp luật : trước khi khởi đầu bỏ phiếu, sẽ lập một tiểu ban 3 người ( một người của ban đảm nhiệm cuộc bầu cử, hai người do dân làng, tỉnh lỵ ( hay thành phố ) cử ra viết giúp cho người đi bầu, một người viết, hai người kiểm tra. Khi viết xong, tiểu ban đó phải tuyên thệ trước mặt những người đi bầu rằng : viết đúng theo lời người đi bầu và giữ bí hiểm ( Điều 36 – Điều 38 Sắc lệnh 51 ). [ 13 ] Vì vậy có tài liệu cho rằng lá phiếu không bí hiểm [ 14 ] và theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim [ 15 ] thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh. [ 16 ]

Ngay trong ngày bỏ phiếu vẫn có các sự việc xảy ra: Trong ngày tổng tuyển cử, Việt Nam Quốc dân Đảng mang tiểu liên đến Ngũ Xã ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ. Người dân Ngũ Xã kéo sang khu phố Nguyễn Thái Học gần đó để bỏ phiếu.[17]

Tại Nam Bộ và Nam Trung Bộ, nơi chiến sự xảy ra ác liệt, lá phiếu bỏ hòm có khi phải đổi bằng máu. 42 cán bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị chết trong công tác vận động bầu cử, trong đó có cả lãnh đạo khu Sài Gòn-Chợ Lớn Nguyễn Văn Tư. Quân Pháp ở các khu vực chiếm đóng (Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An) tấn công người đi bầu cử. Máy bay Pháp ném bom khu vực bầu cử ở Mỹ Tho, Khánh Hòa.[17] Theo nhân chứng sau này là nhà báo Lý Văn Sáu, năm 1946 có mặt tại Khánh Hoà kể lại chuyện ở một khu vực bầu cử: “…nơi mà máy bay địch [chỉ quân Pháp] ném bom cách hòm phiếu chỉ vài trăm mét. Khu vực ông [nhân chứng] bỏ phiếu đã có sáu người chết, 19 người bị thương.

Tại Hồ Chí Minh – Chợ Lớn, bất chấp sự kềm kẹp, khủng bố gắt gao của thực dân Pháp và tay sai, hàng trăm cán bộ Việt Minh đã chia nhau đi những ngã, vào từng thành phố lập list cử tri và hoạt động đồng bào tham gia bỏ phiếu phần đông. Không có phòng bỏ phiếu cố định và thắt chặt cho mỗi thành phố nhưng ở thành phố nào, kể cả những thành phố TT, đều có cán bộ chiến sỹ đem thùng phiếu tới nhà, tới ngõ cho đồng bào bỏ phiếu. Cả Hồ Chí Minh – Chợ Lớn có hàng trăm thùng phiếu như vậy. Ở những vùng do chính quyền sở tại kháng chiến trấn áp, cử tri hồ hởi phấn khởi đi bỏ phiếu với tỉ lệ rất cao ( Bạc Liêu 90,77 %, Sa Đéc 93,54 % … ) [ 18 ] Tại Tân An, máy bay Pháp xả súng bắn vào nơi quần chúng đi bỏ phiếu làm 14 người chết và nhiều người bị thương, nhiều nơi phải bỏ phiếu đêm hôm, vậy mà có trên 90 % cử tri đi bỏ phiếu. Nhân dân ta ai cũng muốn tận nơi mình bỏ phiếu cho nền dân chủ Nước Ta. Tại những tỉnh thành khác của Nam bộ, bất chấp sự ngăn cản và đàn áp của quân địch, cuộc tổng tuyển cử vẫn diễn ra và thành công xuất sắc tốt đẹp. Với kết quả là thành phố Hồ Chí Minh – Chợ Lớn và 19 tỉnh thành Nam bộ bầu được 73 đại biểu Quốc hội thuộc nhiều dân tộc bản địa, tôn giáo, giai cấp, những tầng lớp xã hội, ngành nghề … khác nhau. Lá phiếu trong cuộc bầu cử này được gọi là “ lá phiếu máu ” vì nó thẫm đẫm máu của những chiến sỹ đã quên mình cho nền độc lập của Tổ quốc, vì sự nghiệp kháng chiến cứu nước, vì công cuộc kiến thiết xây dựng chính quyền sở tại cách mạng. Cán bộ ban tổ chức triển khai bầu cử đã ngã xuống để bảo vệ những thùng phiếu và những cử tri của mình. Chỉ riêng tại Hồ Chí Minh – Chợ Lớn, 42 cán bộ làm công tác làm việc bầu cử đã hi sinh, trong đó có quản trị Ủy ban Kháng chiến thành phố Nguyễn Văn Tư. [ 19 ]

Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 14-SL về cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội (Quốc hội). Đây là văn bản pháp luật đầu tiên về bầu cử. Bản Sắc lệnh gồm 7 điều, quy định: “trong một thời hạn hai tháng kể từ ngày ký Sắc lệnh này sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu quốc dân đại hội” (Điều 1); “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường” (Đ.2); “Một Uỷ ban để dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được thành lập” (Đ. 5); “Để dự thảo một bản Hiến pháp đệ trình Quốc hội, một Uỷ ban khởi thảo Hiến pháp 7 người sẽ thành lập” (Đ. 6).[20]

Chính phủ lâm thời còn ra một loạt sắc lệnh để xúc tiến công việc chuẩn bị cụ thể cho việc Tổng tuyển cử. Sắc lệnh số 34-SL ngày 20-9-1945 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm có: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu. Sắc lệnh số 39-SL ngày 26-9-1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử gồm 9 người, trong đó có đại diện của các ngành, các giới.[20]

Tiếp đến, Sắc lệnh số 51-SL ngày 17-10-1945 ấn định thể lệ tổng tuyển cử – văn bản có tính tổng thể tương đương với các Pháp lệnh và Luật về bầu cử sau này – quy định ngày mở cuộc tổng tuyển cử là 23 tháng 12 năm 1945 (Đ. 1); quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải được tiến hành theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bí mật, tuyên bố quyền bầu cử và ứng cử của tất cả các công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, trừ những người điên, người hành khất chuyên môn, người bị án mà không được hưởng đại xá của Chính phủ; quy định đơn vị bầu cử là các tỉnh và sáu thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Sài Gòn – Chợ Lớn cũng đứng riêng làm đơn vị tuyển cử như các tỉnh, ấn định số đại biểu được bầu cử tại tỉnh, thành phố (tổng cộng 329 đại biểu); quy định cách lập danh sách ứng cử (do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố lập nên), danh sách bầu cử (do Uỷ ban nhân dân làng hay khu phố lập); quy định cách thức bầu cử, cách thức điểm phiếu, cách thức tính kết quả bầu cử. Phải có một phần tư (1/4) số cử tri toàn tỉnh (trong thành phố) có đi bầu thì cuộc bầu cử mới có giá trị. Nếu không sẽ có cuộc bầu cử thứ hai. Những người ứng cử phải được hơn nửa (>1/2) số phiếu bầu hợp lệ thì mới được trúng cử. Kèm theo Sắc lệnh này là Bảng ấn định số đại biểu các tỉnh và thành phố được bầu.[20]

Sắc lệnh số 71-SL ngày 2-12-1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người ứng cử: Vì hoàn cảnh giao thông khó khăn, người ứng cử có thể gửi ngay đơn cho Uỷ ban nhân dân nơi mình c­ư chú và yêu cầu Uỷ bân ấy điện cho Uỷ ban nhân dân nơi mình xin ứng cử, đơn và giấy chứng thực đủ điều kiện sẽ do Uỷ ban nhân dân nơi mình cư trú chuyển sau cho Uỷ ban nhân dân nơi mình ứng cử. Sắc lệnh số 72-SL cùng ngày quy định bổ sung số đại biểu được bầu cho một số tỉnh để nâng tổng số đại biểu Quốc hội lên 330 đại biểu. Để tạo điều kiện cho những người có quyền ứng cử và có nguyện vọng ứng cử có đủ thời gian ứng cử và vận động tuyển cử, ngày 18 tháng 12 năm 1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 76-SL quyết định hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày 6 tháng 1 năm 1946.[20]

Có 89 % cử tri ở 71 tỉnh thành đã đi bỏ phiếu. Ở TP. Hà Nội, tỷ suất cử tri đi bầu đạt 91,95 % .

Kết thúc cuộc bầu cử, có 333 đại biểu trúng cử. Trong 333 đại biểu được bầu có:

  • 10 đại biểu nữ;
  • 34 đại biểu dân tộc thiểu số;
  • 87% là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng;
  • 43% là người không đảng phái.
  • 36% là thuộc mặt trận Việt Minh
  • 14% là Đảng Dân chủ Việt Nam
  • 7% là Đảng Xã hội Việt Nam

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ Việt Nam có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ – nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã khẳng định chắc chắn niềm tin tuyệt đối của Đảng Lao động Nước Ta và quản trị Hồ Chí Minh vào ý thức yêu nước của nhân dân Nước Ta. Đồng thời, đó cũng là sự bộc lộ khát vọng dân chủ của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân .

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên, là “Kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối, hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.[21]

You may also like

Để lại bình luận