Site icon Trọn Bộ Kiến Thức

Hồ Quý Ly và cuộc cải cách chưa thành

Thân thế của Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly (1336 – 1407) lấy tên húy là Hồ Nhất Nguyên. Ông là hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu. Ông tại vị từ năm 1400 đến 1401, tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng. Sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm 1401 đến 1407. 

Thời niên thiếu, Hồ Quý Ly theo học võ, gia nhập chốn quan trường triều Trần sau khi đỗ thi Hương, khoa Hoành từ. Ông có 2 người cô ruột đều là vợ vua Trần Minh Tông. Một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, người còn lại sinh ra Trần Duệ Tông. Do đó, ông nhận được sự tin tưởng của Trần Nghệ Tông khi lên ngôi vua. Năm 1373, Hồ Quý Ly được phong làm Tham mưu quân sự chiến lược. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành tử trận, Hồ Quý Ly kinh hãi, bỏ chạy về nước nhưng được tha tội .

ho-quy-ly-va-cuoc-cai-cach-chua-thanh
Tranh vẽ Hồ Quý Ly

Đến năm 1380, Hồ Quý Ly làm Thống lĩnh quân Đại Việt chống lại các cuộc tấn công của Chiêm Thành. Đến năm 1387, ông được phong làm Tể tướng.

Cũng từ đó mà ông nắm giữ quyền lực tối cao gần như là tuyệt đối trong triều. Các tông tộc, quan lại trung thành với chủ với họ Trần đã có 2 lần chính biến nhằm mục đích lật đổ Hồ Quý Ly nhưng ông đều giành thắng lợi. Và đã có nhiều người bị hành quyết sau những lần chính biến đó. Vào năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu. Chưa đầy 1 năm sau thì trao ngôi báu cho con, xứng làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm đại quyền. Hồ Quý Ly cũng chính là người chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa. Sau 20 tháng đăng cơm ông phát binh thảo phạt Chiêm Thành chiếm được 2 châu Đại Chiêm và Cổ Lũy ( 1402 ). Đến năm 1403, ông cho đại quân vây hãm Bồ Bàn nhưng không thắng. Đến năm 1406, nhà Minh xâm lược Đại Ngu. Do không được lòng dân, binh lính bất mãn nên quân nhà Hồ thảm bại, nhanh gọn rút lui về phía nam. Nhà Hồ thất bại trọn vẹn vào năm 1407 khi cha con Hồ Quý Ly bị quân nhà Minh bắt và giải về Trung Quốc .


Phối cảnh thành nhà Hồ Các sử quan thời quân chủ của Đại Việt sau này khi biên soạn các bộ sử của triều đình như sách Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đã không coi nhà Hồ như một triều đại chính thống. Họ đã chỉ trích việc giết vua cướp ngôi, các chủ trương làm mất lòng dân của Hồ Quý Ly và coi việc họ Hồ thất bại trước nhà Minh là kết cục tất yếu.

Hồ Quý Ly – nhà cải cách tiên phong

Nhà Trần, kể từ đời Trần Dụ Tông ( 1341 – 1357 ), khởi đầu bước vào cuộc khủng hoảng cục bộ xã hội ngày càng tổng lực và trầm trọng. Trần Nghệ Tông dù cố gắng nỗ lực khắc phục nhưng không ăn thua. Tham quan Open, dân đói nghèo, nạn cướp bóc khắp nơi. Trong khi đó, quan hệ với Chiêm Thành căng thẳng mệt mỏi, cuộc chiến tranh triền miên, càng về sau tần suất càng cao. Ở phía Bắc, nhà Minh ngày càng tăng cường sức ép và chuẩn bị sẵn sàng cuộc chiến tranh xâm lược. Bản chất sâu xa của cuộc khủng hoảng cục bộ này là xích míc nội tại của thể chế chính trị, quy mô nhà nước phong kiến quý tộc nhà Trần đã trở nên lỗi thời … Từ cuộc khủng hoảng cục bộ này đặt ra nhu yếu về một cuộc cải cách tổng lực về chính trị, kinh tế tài chính, xã hội. Tư tưởng cải cách hình thành và Hồ Quý Ly đã trở thành người tiên phong khởi xướng và chỉ huy cuộc cải cách này. Hồ Quý Ly được ghi nhận là nhà cải cách lớn trong lịch sử dân tộc Nước Ta. Dưới bàn tay của ông, Đại Việt đã chuyển mình can đảm và mạnh mẽ từ quy mô nhà nước quý tộc sang quy mô nhà nước quan liêu, với mức độ tập trung chuyên sâu quyền lực tối cao vào triều đình trung ương được tăng cường lên một mức độ mới. Công cuộc cải cách thời kỳ này vừa có những nét tân tiến vừa sống sót không ít những sai sót .


Hồ Quý Ly là một nhà cải cách tiên phong Về nhân sự, Hồ Quý Ly đã mở đường cho những người có năng lượng nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc tham gia vào việc vương quốc đại sự. Cụ thể, năm 1375, ông đã tham mưu cho vua Trần Duệ Tông xuống chiếu tuyển các quan viên viết võ nghệ, thông hiểu thao lược để làm tướng, không nhất thiết phải là dòng dõi tôn thất. Thực ra đầu thời Trần cũng có những danh tướng xuất thân không phải tôn thất như Lê Tần, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái … Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp riêng không liên quan gì đến nhau, riêng biệt chứ chưa là chủ trương của triều đình. Dưới bàn tay của Hồ Quý Ly, việc học tập thi tuyển cũng được định lại một cách quy củ hơn, rộng đường cho những người tri thức tiến thân vào quan trường. Phép thi tuyển thời Hồ được lấy làm chuẩn mực cho nước Việt xuyên suốt mấy trăm năm sau. Chính sách ” hiền tài là nguyên khí vương quốc ” của Hồ Quý Ly quả thực đã giúp cho nguyên khí của nước Việt được mạnh hơn. Song điều đó không bù đắp được những nguyên khí đã bị mất mát trong cuộc đổi ngôi. Không thể không nhắc đến việc những tầng lớp tôn thất của nhà Trần được giảng dạy tốt về thuật quản lý và binh pháp đã bị giết hoặc phải sống ẩn dật. Kể cả những quan lại có tài không thuộc hoàng tộc nhưng chống lại uy quyền của nhà Hồ cũng không thoát họa .

Quảng cáo

Ví dụ như danh tướng Nguyễn Đa Phương là người mà chính Hồ Quý Ly tiến cử, cùng Hồ Quý Ly sát cánh chống giặc Chiêm Thành nhưng sau đó cũng vì hiềm khích mà bị Hồ Quý Ly gièm pha khiến Đa Phương bị Nghệ Tông giết.

Vào năm 1396, để trưng thu nguyên vật liệu đồng trong dân ship hàng việc đúc súng, Hồ Quý Ly đã lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. NHững ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử chết, tịch thu gia tài. Xét việc lưu hành tiền giấy vừa tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, vừa là phương pháp văn minh. Song chủ trương tiền giấy của nhà Hồ lại phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin cậy vào giá trị thanh toán giao dịch của nó .


Dù có tư tưởng tiến bộ nhưng cuộc cải cách của Hồ Quý Ly không đạt được thành công Trong điều kiện kèm theo kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa chưa thực sự tăng trưởng hoàn thành xong, tự thân tiền đồng được bảo vệ giá trị bằng vật tư làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm ý người dân thời kỳ này đa số cho rằng giấy là vật tư giá trị thấp, dẫn đến thiếu tín nhiệm về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị trộn lẫn rất lớn, tác động ảnh hưởng đến uy tín của triều đình với nhân dân. Đến năm 1397, Hồ Quý Ly muốn tách vua khỏi đất cơ bản để dễ bề soán ngôi nên đổi trấn Thanh Hoa làm trấn Thanh Đô, cho thiết kế xây dựng thành An Tôn, ép vua Trần Thuận Tông phải dời đô về đó. Kinh đô mới gọi là Tây Đô. Kinh đô cũ là Thăng Long đổi thành Đông Đô. Việc làm này của Hồ Quý Ly khiến quan viên phẫn nộ, hết lời can gián. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng biểu : “ Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ [ chỉ Thăng Long ] có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [ tức sông Hồng ], núi cao sông sâu, đất phẳng phiu thoáng đãng. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước : khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu … Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu : Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm ”. Kể cả Hành khiển Phạm Cự Luận là người tâm phúc của Quý Ly cũng khuyên không nên. Nhưng mặc kệ toàn bộ, Hồ Quý Ly vẫn cho dời đô. Vào năm 1397, Hồ Quý Ly xuống lệnh định lại chính sách các địa phương “ Lộ trông coi phủ, phủ trông coi châu, châu trông coi huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét ”. Trách nhiệm của các cấp trực tiếp nhau từ trên xuống dưới, việc quản trị triều đình nhờ đó mà đơn thuần hơn. Xuyên suốt thời kỳ chuyên chính đến khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần biến hóa hành chính ở các địa phương, cốt là để việc quản lý của triều đình trung ương được thông suốt, hạn chế thực trạng cát cứ địa phương. Để chia nhỏ thế lực của giới quý tộc, Hồ Quý Ly phát hành chủ trương ” hạn điền ” : “ Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế ; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước ”. Ông còn sai quan làm lại sổ ruộng đất rất kỹ càng. Nhưng ruộng quá hạn làm sổ mà chưa kê khai, cắm tên chủ trên mảnh đất đó sẽ bị sung công. Chính sách hạn điền trên thực tiễn là 1 cuộc cải cách ruộng đất nhằm mục đích tóm gọn thêm ruộng công cho nhà nước, giảm số ruộng tư, hạn chế quyền lực tối cao của các địa chủ. Hồ Quý Ly cũng đưa ra chủ trương để kìm chế giới quý tộc cũ là ” hạn nô ” : “ Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người quốc tế thì không theo lệ này ”. Đây không phải là chủ trương giải phóng nô lệ mà chẳng qua chỉ là một thủ đoạn chính trị của Hồ Quý Ly nhắm vào giới quý tộc cũ. Chính sách này xuất hiện lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế tài chính, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh gọn không thay đổi quốc gia, tránh khỏi những rủi ro tiềm ẩn nội chiến tiềm tàng. Mặt trái là đã động vào những nhóm quyền lợi cơ bản của xã hội Đại Việt đương thời, làm cho họ Hồ khi lên ngôi mất đi sự ủng hộ của các những tầng lớp nắm giữ tài lực, cũng là những tầng lớp có uy tín, có thế lực nhất trong quốc gia. Về văn hóa truyền thống giáo dục, Hồ Quý Ly khuyến khích sử dụng chữ Nôm ; phát huy tính năng của Nho giáo ; tôn vinh lối học thực dụng, nâng cấp cải tiến thi tuyển và phát hành chủ trương khuyến học. Trước rủi ro tiềm ẩn nhà Minh xâm lược và gây hấn của Chiêm Thành, Hồ Quý Ly chú trọng cải cách quân sự chiến lược để tăng cường năng lực phòng thủ vương quốc. Năm 1401, lập sổ hộ tịch nhằm mục đích “ điểm binh càng nhiều ” ; bổ sung quân nô vào quân điện tiền với tiềm năng có đội quân 1 triệu người. Đến năm 1402, xét duyệt quân ngũ, chọn tráng đinh, cho người nghèo sung vào quân trợ dịch sau đổi làm quân bồi vệ. Năm 1403, đem người chưa có ruộng mà có của đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ. Năm 1405 kiểm soát và chấn chỉnh lại tổ chức triển khai quân đội, chia thành các vệ, đội, doanh … một cách quy củ.

Bên cạnh việc chú trọng cải tiến vũ khí, trang bị; mở xưởng đúc vũ khí, chế tạo súng thần cơ, đóng thuyền chiến đinh sắt; bổ sung voi chiến; xây dựng các hệ thống phòng thủ, nhất là các thành lũy. Đáng kể nhất là thành Tây Đô (Thanh Hóa), Đa Bang (Sơn Tây) và hệ thống các công trình phòng thủ quy mô lớn, gồm các bãi cọc, xích sắt, các đồn binh kéo dài từ núi Tản Viên, ven theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình.

Các sử gia đánh giá : Nhìn chung, tư tưởng và chủ trương nâng cấp cải tiến của Hồ Quý Ly có điểm tân tiến, thậm chí còn vượt trước thời đại của Hồ Quý Ly không chỉ là một giải pháp tình thế để xử lý cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, phân phối nhu yếu phòng thủ vương quốc lúc bấy giờ mà còn mở màn cho việc kiến thiết xây dựng một nhà nước TW tập quyền thay thế sửa chữa cho nhà nước phong kiến quý tộc lấy Phật giáo làm quốc giáo đã lỗi thời. Song, mạng lưới hệ thống chủ trương, các giải pháp cải cách còn nhiều điểm chưa hài hòa và hợp lý, còn chưa ổn. Cuộc cải cách này chưa đủ sức để hóa giải cuộc khủng hoảng cục bộ, chưa xử lý được những xích míc xã hội, mà còn làm rạn nứt thêm mối đoàn kết toàn dân, nhất là mối liên hệ giữa vương triều với nhân dân. Nhà Hồ nhanh gọn bị thất thủ trước cuộc xâm lược của nhà Minh một phần là do mất lòng dân.

Xem thêm: Bí ẩn về cái chết của 6 vị vua chúa Việt Nam đến nay vẫn chưa có câu trả lời

Exit mobile version